Bằng sáng chế đề cập đến hình thức quảng cáo ”Pay per Gaze”-trả tiền cho mỗi lần người dùng sử dụng kính để xem quảng cáo online hoặc offline.
Bằng sáng chế không đặc biệt nhấn mạnh đến Google Glass, nó chỉ đề cập đến “hệ thống theo dõi ánh mắt” đòi hỏi phải có “mắt kiếng” và “1 bộ phận hỗ trợ gắn với tai của người dùng”. Thông qua ống kính người dùng có thể thấy cảnh được chụp tại thời điểm hiện tại, hoặc ít nhất cũng là hình ảnh của camera.
Mặc dù Google cũng đã từng đề cập đến việc cấm quảng cáo trên Google Glass, nhưng từ tất cả các dữ kiện trên thì Google Glass vẫn đối tượng nghi vấn phù hợp nhất.
Theo như thông tin trong bằng sáng chế thì sẽ có một kỹ thuật theo dõi nhất định xác định xem người dùng đang nhìn cái gì. Bên cạnh đó cũng có một hệ thống xác định xem khi nào và có phải nguời dùng đang xem quảng cáo hay không. Sau đó nó sẽ tính phí quảng cáo cho những lượt xem và xác định xem liệu người dùng có chú ý đến quảng cáo hay không và nếu có thì trong bao lâu.
Bằng sáng chế cũng đề cập đến khả năng “nhận diện cảm xúc của người dùng trong quá trình xem các hình ảnh bên ngoài và dựa trên một phần thông tin sinh học”. Nói cách khác là Google có khả năng xác định và thu thập phản ứng cảm xúc của người dùng đối với từng loại quảng cáo nhất định.
Dựa trên những phản ứng cảm xúc thu thập được từ người dùng, Google có thể đưa ra mức phí thích hợp cho từng loại quảng cáo.
Bên cạnh đó yếu tố cá nhận vẫn được coi trọng. Theo như bằng sáng chế “thì các thông tin cá nhận sẽ được loại bỏ khỏi nguồn dữ liệu chung, chỉ cung cấp cho các nhà quảng cáo những phân tích được ẩn danh” và cũng đề cập đến khả năng kết hợp giữa việc chọn và loại bỏ một số lựa chọn.
Mặc dù bằng sáng chế gợi đến hình thức báo cáo theo thiểu số nhưng nó không đảm bảo về sự thành công của công nghệ hay thậm chí là ứng dụng của nó.
Nhưng nếu như công nghệ trong bằng sáng chế được ứng dụng trên Google Glass thì nó sẽ tạo ra sự thay đổi cơ bản cho quảng cáo.
No comments:
Post a Comment